Hệ thống monitor (giám sát) - âm thanh chuyên nghiệp

  • Ngày đăng:
  • Lượt xem: 8746

Ở đây, quan tâm chính mà chúng ta thường phải đối mặt là phải đạt được gain đầy đủ trước khi bị hú (gain before feedback). Khi loa hướng thẳng vào vị trí microphone, chúng ta cần phải phụ thuộc vào mô hình định hướng của micro và trong lúc diễn giả hay ca sĩ đến gần micro nếu chúng ta muốn đạt được sự hợp lý trước khi xảy ra feedback liên tục.

Khi điều khiển loa monitor từ mixer chính FOH (front of house) (một chức năng theo truyền thống gọi là toldback), sử dụng pre-fader aux.send, và nói chung, thường trang bị một hay hai mix monitor (tùy thuộc vào khả nảng của mixer). Chúng ta có thể thiết lập hai mix, chẳng hạn, cung cấp một mix cho những diễn viên phía trước và một cho hai bên sân khấu, điều chỉnh mức tương ứng phù hợp tốt nhất cho nhu cầu của thiết lập sân khấu cụ thể. Một cách tiếp cận phổ biến là dùng một mix cho ca sĩ chính, và mix thứ hai cho nhạc công, như thí dụ đã thảo luận ở phần nói về loa horn.

Nếu tài chính cho phép, chúng ta có thể dùng một mixer FOH có matrix. Ở đây, chúng ta có thể dùng vài submix để cung cấp mix monitor để bổ sung cho sự điều khiển này từ monitor send (nói cách khác, những pre-fader aux). Một thí dụ về điều này chính là một mix riêng biệt cho trống và có thể là keyboard hay nhóm nhạc cụ kèn (brass). Những mix ma trận bổ sung, dĩ nhiên sẽ phản ánh bất kỳ thay đổi nào mà người vận hành đã làm trong FOH mixed cần được chuyển qua những subgroup. Vì vậy, nếu sử dụng matrix, cần phải quyết định ngay, diễn viên muốn nghe nhạc cụ của họ thay đổi mức độ hay không, nó đóng vai trò quyết định. (Thông thường, điều này có vẻ không hấp dẫn như dự đoán ban đầu, và những thay đổi như vậy thật sự có thể gây bối rối cho nhiều diễn viên).

Trong bất kỳ hệ thống pro-sound tương đối lớn hay phức tạp nào cũng vậy, phương pháp tối ưu là dùng một mixer trên sân khấu riêng cho loa monitor. Có hai dạng thức cơ bản về mixer monitor. Đầu tiên, thiết lập mỗi bus monitor trở thành post-fader trên mỗi channel riêng lẻ. Dùng Fader để điều chỉnh mức độ tổng thể của từng channel input trong toàn bộ mix. Phương pháp đa năng hơn một chút cung cấp sự lựa chọn giữa pre và post-fader trên mỗi bus monitor. Những thiết kế mixer cơ bản khác chỉ cung cấp từng send riêng cho mỗi bus monitor, không có fader trên channel input. Như vậy, mixer phục vụ chủ yếu như một matrix lớn.

15.1

Hình 1

Thí dụ về loa monitor thương mại.

Meyer UM-T là một (processor-controlled biamped monitor- ~ kiểm soát xử lý 2 ampli loa monitor) với mô hình hiển thị là horn hình nón 60°, do đó phù hợp với mô hình cone driver 12” LF. Hình bên phải: EV FM 1202 là monitor có crossover passive với một horn hướng cố định, hiển thị là mô hình loe ngang 90°. Một mô hình 90° khi cần sẽ cho phép một loa monitor cũng bao trùm được hai micro.

15.2

Hình 2

Bố trí loa monitor.

Cũng nên nói rõ, cách bố trí loa monitor sân khấu cơ bản cũng là đặt lệch trục với microphone đơn hướng (uni-directional), đúng góc độ thu âm thanh tối thiểu của micro. Trong tình huống, nơi mà gain before feedback là vấn đề, chẳng hạn như trên một sân khấu lớn, có thể thực hiện vài điều để cải thiện khả năng nghe được cho diễn viên. Trước hết, chúng ta có thể yêu cầu họ duy trì vị trí rất gần micro (có thể dùng hiệu ứng gần, nếu cần thì bù lại bằng EQ). Chúng ta có thể đặt monitor hơi quay vào bên trong, hướng về phía tai chứ không phải dưới khuôn mặt, không luôn cải thiện được gain, nhưng là khả năng nghe được giải high end của loa monitor. (Đôi khi cũng cải thiện gain before feedback khá tốt ở đây nữa. Khi góc bên không ở góc thu âm tối thiểu của một micro cardioid, nó có ưu điểm là làm giảm số lượng âm thanh dội ra khỏi mặt và quay lại vào micro khi dùng quá gần. Điều này có thể cho một lợi thế nhỏ trong tần số cao). Dĩ nhiên, nếu có sẵn hai monitor, chúng ta có thể đặt mỗi bên một cái cùng một góc độ. Chúng ta cũng có thể hơi nâng cao loa monitor bằng vài loại đệm, đưa nó gần người biểu diễn hơn và đạt được góc độ đối với tai tốt hơn.

Bất kỳ loa monitor nào cũng rất beamy (nói cách khác, rất nóng (hot) trên trục), chẳng hạn như loa 12” đơn với loa tweeter hay horn straight exponential loại nhỏ, thường đạt kết quả tốt nhất ở những vị trí đặt đúng, ở đây, trục của monitor hướng vào sau đầu, tăng output theo hướng tai, và hơi giảm output theo hướng micro (Góc độ trong hình minh hoạ, tình cờ lại là góc khoảng 12dB với mic cardioid, và gần góc độ thu âm tối thiểu của micro supercardioid hay hypercardioid.)

15.3

Hình 3

Đường dẫn (flow) cơ bản của tín hiệu monitor từ mixer FOH„

Nói chung, EQ 1/3 octave là lựa chọn ưa thích về EQ monitor. Hướng dẫn cơ bản cho việc dùng EQ để kiểm soát feedback.

Compressor/limiter trong sơ đồ này là tùy chọn, nhưng có thể hữu ích trong những hệ thống cấp cao không chỉ trong việc bảo vệ chính loa monitor, mà còn trong việc giữ volume sân khấu trong giới hạn hợp lý. Một vấn đề phổ biến, đặc biệt là nơi dùng nhiều loa monitor có mức độ cao trên sân khấu chật chội, là âm thanh mức độ cao của loa monitor đến từ sân khấu (thường trong giải tần khoảng dưới 800Hz). Người vận hành hệ thống có thể đạt được mức tăng mức tối thiểu do điều khiển mix FOH hợp lý, đôi khi đến mức cần phải tăng âm lượng của mix chính. Compressor/limiter trên monitor, cùng với sự chú ý cẩn thận đến mức độ khuếch đại nhạc cụ, thường có thể góp phần cải thiện âm thanh tổng thể và đơn giản hóa nhiệm vụ của người vận hành hệ thống.

15.4

Hình 4

Sử dụng một mixer monitor đặt tại vị trí mix FOH. Những con số dưới đây trùng với con số trên hình minh họa đi kèm.

(1) Cần phải sử dụng một lượng mối nối (jumper) khá nhiều để mang tín hiệu input từ mixer monitor đến main mixer. Nói chung điều này sẽ mang dạng thức một cáp đa lõi (multicore) có đuôi (tail) và jack nối XLR inline ở cả hai đầu. Lúc bức thiết, chúng ta cũng có thể dùng một bộ dây micro đánh số ở cả hai đầu và cột thành một bó).

(2) Thông thường, không phải tất cả nhạc cụ trên sân khấu cũng đều đòi hỏi monitor bất kỳ. Vì amplifier sân khấu thực chất có tác dụng như là monitor cho diễn viên. Những channel này né tránh (bypass) mixer monitor bằng cách nhảy qua nó để đến thẳng mixer chính. Đôi khi, có thể phải có main snake dù dài đủ tránh cần phải nhảy qua như vậy.

(3) Trong hiển thị thiết kế Rane MM12, đã gắn bộ chia (splitter) vào chính mixer này. Trong trường hợp này, những channel của main snake cắm vào mixer monitor, và jumper chạy đến main mixer. Trong vài trường hợp, mixer monitor không có output XLR trên mỗi channel, cần phải dùng vài loại splitter. Nói cách khác, phải dùng một bộ dây hình chữ Y đơn giản, nhưng phương pháp hiệu quả hơn là dùng hộp splitter như minh họa trong hình 6.

(4) Output mix (trong trường hợp này lên đến sáu mix) được patch qua EQ outboard và cuối cùng trở về ampli monitor. Có thể thực hiện điều này thông qua những channel bổ sung cho main snake (nó có sin đầy đủ), hay bằng một snake riêng.

(5) Mixer monitor đặc biệt cho phép output headphone của main mixer được patch với ổ cắm chuyên dụng trên mixer monitor có dây patch stereo ¼” (TRS), cho phép người vận hành nghe được mix chính. Khi nhấn nút cue (tương đương PFL) bất kỳ nào trên mixer monitor, sẽ loại bỏ mix chính và sẽ nghe được tín hiệu từ những channel monitor đặc biệt. (Điều này không làm gián đoạn dòng dẫn (flow) của tín hiệu PFL từ các main mixer, vì vậy, đây là cơ hội giữ nguyên vẹn những channel riêng trên main mixer).

15.5

Hình 5

Sử dụng mixer monitor đặt trên sân khấu. Những con số dưới đây trùng với con số trên hình minh họa đi kèm.

(1) Với mixer monitor có output cho mỗi channel (như hình minh họa Rane MM 12). có thể thực hiện vài phương pháp tiếp cận.

Chúng ta có thể dùng một subsnake để loại bỏ nhu cầu phải chạy tất cả đường dây (line) micro, bằng cách băng qua sân khấu cho mixer monitor, như minh họa. Hay, nếu chúng ta bị hạn chế vì ngân sách thấp, chúng ta có thể đặt mixer monitor làm sao cho những line micro có thể trực tiếp đến được nó.

(2) Vì hầu hết những loại snake đều có chiều dài bất kỳ liên quan đến việc có stagebox (trái ngược với đuối (tail) ở cả hai đầu), chúng ta có thể sẽ yêu cầu một snake nhảy qua mixer monitor bằng một stagebox (vị trí #2 trong hình minh hoạ, thể hiện bằng đường chấm). Subsnake như vậy cần phải có đuôi ở cả hai đầu. Lúc bức thiết, chúng ta có thể dùng những line miro riêng để chạy như vậy, nhưng trong bất kỳ hệ thống chất lượng cao nào, cũng nên sử dụng cáp đa lõi. (Chúng ta có thể, nếu ngân sách là vấn đề nghiêm trọng, sửa đổi main snake để nó có đuôi trên cả hai đầu, do đó loại trừ nhu cầu phải bổ sung thêm subsnake.

Rõ ràng, sẽ cần phải mua jack nối XLR và cộng lượng thời gian cống hiến công sưc đáng kể. Chương 16 trình bày hướng dẫn những kỹ thuật hàn và hệ thống dây của jack nốiXLR).

(3) Trong hình minh họa, # 3 chỉ định những channel không đòi hỏi monitor sân khấu, đó là nhảy trực tiếp đến main snake. Khi mixer không dùng output splitter, chúng ta cần phải dùng hộp splitter như trong hình 15.6, cung cấp cho cả hai mixer. Khi đó hộp splitter là vừa túi tiền, nó là lựa chọn ưa thích, không có vấn đề gì về thiết kế của mixer monitor.

(4) Jumpers từ output của mixer monitor (trong trường hợp này lên đến sáu) chạy từ vị trí mixer đến ampli monitor, tốt nhất là patch qua EQ outboard. Vị trí cho những EQ outboard ưa thích là một rack riêng biệt ở vị trí monitor-mixer trái ngược với ở rack ampli.

15.6

Hình 6

Cấu hình cơ bản bộ chia (splitter) tín hiệu input của hệ thống monitor.

Cấu hình chia trong minh hoạ này là khá chuẩn, mặc dù đôi khi cũng thấy những định dạng khác, ở đây, switch chuyển nối đất (ground lift switch) không kết nối với lưới mặt đất (pin # 1) để làm gián đoạn vòng đất (ground loop) và những liên kết hum hay buzz trong output của hệ thống.

Thông thường, hộp splitter chất lượng cao là biến thế cách ly (transtormer isolated), ngược lại với kết nối song song đơn giản. Một lý do cho điều này là trong những thiết kế mixer nhất định, thay đổi thiết lập của bộ suy giảm (attenuator) input có thể làm thay đổi mức độ ở mixer khác khi nó có kết nối song song mà không có ưu điểm như biến thể cách ly. Lý do khác là trở kháng input tổng thể bị giảm, trong đó những ứng dụng chất lượng cao quan trọng có thể làm giảm đáp ứng tần số, đặc biệt khi sử dụng snake dài (thí dụ 150ft hay hơn).

15.61

Hình bên phải thể hiện thí dụ về cấu hình của splitter-box liên quan đến jack kết nối multi-pin bổ sung vào những jack nối XLR loại thông thường. Trong trường hợp này chúng ta sẽ dùng một jack kết nối multi-pin đến mixer chính và một đến mixer monitor, có những jack XLR-outs riêng sử dụng để phòng hở. Vài hộp splitter được thiết kế có hai switch chuyển nối đất (ground lift switch) cho mỗi channel, cho phép lựa chọn việc chuyển kết nối với giáp nối đất (pin # 1) cho mixer chính hay mixer monitor, hay cả hai.

15.7

 

Tin Tức

Đánh giá bài viết

avatar
x