Giúp bạn đến shop nhanh nhất có thể
Sử dụng mô hình định hướng trong thực tế
(Pratical Use of Directional Patterns)
Việc sử dụng mô hình định hướng cho microphone sao cho thật hiệu quả có thể cung cấp một lợi thế quan trọng đối với hiệu quả toàn diện của hệ thống mà nó được sử dụng. Rõ ràng, nó có thể dùng để giúp giảm thiểu thu nhận âm thanh từ những nguồn khác với nguồn được chỉ định, dĩ nhiên đây là lý do cho micro định hướng ngay từ đầu. Chẳng hạn, sự khác biệt trong việc thu âm thanh ngoài trục giữa một micro omni và uni-directional, thường khoảng 4dB đến 6dB khi tham chiếu đến đáp ứng trên trục. Giữa 90 và 180 độ, là hướng tổng quát, từ đó hầu hết output hệ thống trực tiếp và phản dội tiếp cận bình thường với microphone, sự khác biệt trung bình giữa omni và cardioid khoảng 12dB. Như vậy, ưu điểm đạt được trong việc bảo vệ để chống lại sự hồi tiếp (feedback) có thể lớn hơn nếu những góc loại bỏ tối đa được sắp thẳng hàng với vị trí loa và/hay góc độ chính mà âm thanh phản dội đi đến từ đó.
Nhưng đây không phải là yếu tố duy nhất có liên quan. Hiệu ứng gần của miccro định hướng, như đã đề cập trong phần trước, có thể giúp cho một nguồn âm lân cận cô lập nhiều âm thanh hơn nữa từ nhiều nguồn xa hơn. (Dĩ nhiên, đây chỉ có một yếu tố với những thiết kế trong đó có hiệu ứng gần đã không được loại trừ). Ưu điểm đạt được do hiệu ứng gần nói chung rất quan trọng trong giải low, tương đối quan trọng trong giải lower-mid, và không đáng kể trong tần số cao, nơi mà chúng ta cần phải dựa chủ yếu trên mô hình hướng để giảm thu nhận nhiều âm thanh xa hơn.
Những nguồn âm thanh cô lập và bảo vệ tốt nhất, chống lại việc phát sinh feedback bằng cách giảm thiểu khoảng cách với nguồn âm thanh và tăng tối đa khoảng cách với loa. Mô hình định hướng và có hiệu ứng gần có lẽ tốt nhất nên coi là trợ giúp bổ sung nhằm giảm thiểu thu nhận âm thanh không muốn từ môi trường chung quanh. Nhưng nó có thể trợ giúp rất đáng kể (xem Hình 10 và 11).
Vậy sự khác biệt giữa những mô hình định hướng cơ bản, đến nay đã giới thiệu trong chương này thì sao? Thông thường, có thể sử dụng micro cardioid, supercardioid hay hypercardioid trong cùng khoảng cách. Nhưng những mô hình supercardioid hay hypercardioid có thể là sự lựa chọn thích hợp hơn so với cardioids trong vài tình huống, chẳng hạn như yêu cầu mức output hệ thống phải rất cao, hay khi cần phải tăng khoảng cách từ nguồn tới micro lên, nhưng không kéo theo việc lắc (swing) rộng nguồn âm thanh cạnh này qua cạnh kia (side-to-side). Mặc dù gốc làm việc hiệu ứng side-to-side có phần giảm, sự loại trừ của âm thanh tiếp cận từ hai bên trực tiếp và những góc độ rộng hơn về phía sau sẽ hiệu quả hơn (xem hình 10). Như đã nêu trước đây, tiềm năng đánh đổi cân bằng (trade-off) với supercardioids và hypercardioids là khả năng thu nhận âm thanh từ những góc gần trực tiếp phía sau (150-180 độ ngoài trục). Nhưng đôi khi, hiệu quả việc thu nhận phía sau không đáng kể, so với những lợi ích khả thi của việc thu ngoài trục giảm toàn bộ (xem hình 10).
Khi supercardioids và hypercardioids cơ bản có hiệu ứng gần phong phú hơn cardioids, sự thu nhận tương đối của nhiều nguồn xa, nó đến hướng nào không thành vấn đề, tiếp tục giảm khi sử dụng gần, đặc biệt trong giải thấp khoảng 500Hz. Thí dụ, việc hủy bỏ/chênh lệch tiếng nhiễu của microphone hypercardioid, minh họa trong hình 10 phụ thuộc rất nhiều vào hiệu ứng này, bằng cách dùng nó phối hợp với mô hình định hướng của nó để làm giảm hiệu lực tương đối của những âm thanh chung quanh. Cách tiếp cận này có thể hữu ích ở mức độ rất cao khi bố trí micro gần, vài thiết kế bán trên thị trường nhằm mục đích cụ thể này. Đây là loại micro cũng có thể rất hữu ích như micro phóng thanh thông báo trong môi trường ồn ào (nhà máy, vài loại sự kiện thể thao, trung tâm điều hành giao thông, v.v),
Thật thú vị, khi micro supercardioid hay hypercardioid sử dụng rất gần cho màn trình diễn cao cấp, sự thu nhận từ trực tiếp phía sau không chỉ thành ra ít quan trọng, mà còn thật sự có thể có ưu điểm ở vài tần số (thường trên giải midle và treble). Điều này là do một lượng âm thanh nhất định bị nẩy ra khỏi mặt của người nói hay hát gần, đặc biệt khi có loa monitor sân khấu đặt tại vị trí phía sau micro (nó thật sự có một phần phản dội và một phần cộng hưởng). Vì sự thu nhận phía sau là những phase nghịch, nó cũng có thể giúp loại bỏ một số âm thanh dội lại từ mặt. Sự trao đổi với việc sử dụng gần của một hypercardioid (thí dụ, một trong những hiệu ứng gần không bị loại trừ trong thiết kế) là thay đổi khoảng cách nguồn đến micro hay dịch chuyển sang một bên đáng kể, có thể thay đổi sự thu nhận nguồn âm thanh dự định, cả về mức độ lẫn chất lượng âm như vậy, ở đây cần duy trì những vị trí nằm gần trên trục khá cẩn trọng. Đồng thời, thường yêu cầu vài phương pháp cắt giảm đáp ứng tần số thấp có hiệu quả (điều này phụ thuộc vào đáp ứng tần số ở mức thấp), để tránh cho ra nhiều tần số thấp. Điều này có thể liên quan đến tổn thất bổ sung, hay tổn thất của micro có gắn kèm switch low-cut, hay ở những tổn thất của EQ đa năng hơn.
Micro shotgun định hướng cao cấp (như trong hình 12), trong vài trường hợp có thể hữu ích cho âm thanh pro, thí dụ, hỗ trợ giọng diễn viên trong rạp hát. Đây là những công trình phức tạp hơn họ cardioid, và không dành cho sử dụng gần. Đôi khi cũng dùng micro shotgun (với mức độ hiệu quả khác) để lấy tiếng nói khi phỏng vấn khán giả và tăng âm lên để nó có thể nghe tiếng những khán giả còn lại và người nói chuyện trên sân khấu. Thí dụ, trong phòng Báo chí Nhà Trắng đã sử dụng hai micro này có vị trí loa monitor gần bục nói. Khiếm khuyết lớn trong loại ứng dụng này phụ thuộc cực đoan vào kỹ năng và sự tỉnh táo của người vận hành microphone.
Micro bi-directional (hình số tám) tiếp tục hoạt động hiệu quả, nếu bị hạn chế, sử dụng cho sự bố trí hệ thống micro gần những nhạc cụ âm trầm (bao gồm cả trống bass), vì nó tác động ở tần số thấp mạnh nhất trong những mô hình micro cơ bản. Hơi thiên vị khi chỉ dùng micro này cho nhạc cụ âm trầm, mặc dù, nó có thể chạy suốt toàn bộ âm giai từ omni đến bi-directional.
Vậy làm thế nào xét ưu và khuyết điểm của toàn bộ chuyện này? Ồ, đó là những micro định hướng nhiều hơn, có khả năng làm được việc hơn để tránh tiếng feedback và cô lập những nguồn âm thanh dự định nếu nó được sử dụng có hiệu quả. Trong điều kiện di chuyển nguồn âm thanh gần hay xa ra, hay cách xa ngoài trục, dĩ nhiên micro omni cung cấp sự flexiblity (linh động) nhất, đây là lý do tại sao phần lớn nó thường được dùng cho họp báo (news gathering) và những tình huống có khuynh hướng không có feedback. Với omni, việc xem xét chính là khoảng cách từ nguồn âm thanh, và không phải là một yếu tố (mặc dù nên nhớ tần số cao bị giảm phần nào ở những góc rộng ngoài trục).
Cardioids rơi vào giữa hai thái cực trên, ở đây vẫn có một mức độ linh hoạt khá lớn khi nguồn âm chuyển động để ra hai bên, lên trên hay xuống dưới từ trục trung tâm. Tuy nhiên, sẽ giảm mức độ linh hoạt phần nào với supercardioids, và giảm hơn nữa với hypercardioids.
Vì vậy, những nguy cơ của sự khuếch đại đã rõ ràng, khi mô hình hẹp, cần phải xem xét những vị trí micro kỹ lưỡng hơn để hưởng lợi từ những lợi ích tiềm năng của mô hình hẹp. Đồng thời, khi có hiệu ứng gần mạnh, nhiều khả năng chúng ta sẽ giảm thu nhận tần số giữa (midrange) và low hơn từ môi trường chung quanh. Đánh đổi: hiệu ứng gần mạnh sẽ thay đổi chất lượng âm khi khoảng cách nguồn đến micro bị biến thiên, do đó càng quan trọng hơn, sẽ trở thành khoảng cách phù hợp hợp lý được duy trì khi sử dụng gần hơn. (Hãy nhớ, hiệu ứng gần mạnh nhất thấy trong micro bi-directional, và dần dần giảm đi với hypercardioid, supercardioid, micro cardioid và semicardioid, không có hiệu ứng gần cho tất cả micro omni).
Hãng sản xuất cũng có thể tăng hay loại bỏ hiệu ứng gần, tùy thuộc vào thiết kế công dụng của micro. Hình trong A, B và C được thiết kế công nghiệp sử dụng hiệu quả hiệu ứng gần bằng cách cải tiến nó.
(A) Crown CM-310 micro differoid cardioid vocal. Ở đây màng chắn (diaphragm) được bố trí rất gần với mặt trước của lưới bảo vệ, so với micro điển hình. Cách bố trí này cho phép khoảng cách nguồn rất gần với micro trên trục, tăng hiệu ứng gần khi môi đang chạm vào mic. Đồng thời, vì luật bình phương nghịch đảo (giới thiệu trong chương 4), vị trí của màng chắn gần với mút chắn gió này cho phép tăng sự thu nhận nguồn dự định so với môi trường chung quanh hay hướng ra của loa monitor sân khấu. Nhưng đừng di chuyển loại micro này, hay làm âm thanh bye-bye (vỗ micro).
(B) Beyer hypercardioid TGX-580 (polar pattern đã thể hiện trong hình 5.8). Đây là loại micro sử dụng nguyên tắc tương tự như trong hình A, mặc dù có mô hình thu nhận hơi hẹp hơn.
(C) AKG D-558B micro noise-canceling/differental. Một microphone hypercardioid loại thông báo, sử dụng một nguyên tắc tương tự, nhưng dẫn đến cực đoan. Trong loại micro này, hiệu ứng gần được mở rộng rất lớn lên ở tần số, cung cấp sự phân biệt cực đoan, chống lại những âm thanh có nguồn từ rất xa, có lợi cho người sử dụng rất gần.
Hiệu ứng gần cũng có thể bị giảm hay loại bỏ trong micro đơn hướng. Đều sử dụng cả hai phương pháp trên.
(D) Electrovoice RE-20 (còn gọi là PL-20). Micro này, được ưa thích dùng cho trống bass, saxophone (và phát thanh thông báo), bố trí thêm hệ thống cửa sổ dọc theo chiều dài của thân micro để loại bỏ hiệu ứng gần. Đây là một trong nhóm các micro không có hiệu ứng gần, nhãn của hãng sản xuất này là Variable-D. Không che những cửa sổ này bằng bàn tay, hay nguyên tắc Variable-D sẽ bị giảm giá trị, mô hình định hướng cũng vậy.
(E) AKG D-202E cardioid. Cái này sử dụng hai màng chắn, kế tiếp nhau, cùng với một crossover. Là micro dynamic cardioid có ít hay không nghe rõ hiệu ứng gần, micro này là micro bục sân khấu đã được quốc tế ưa chuộng.
(F) AKG D-224E cardioid. Cùng nguyên tắc như E.
Hình 11 (A) Đặc điểm microphone tính theo mô hình cực cơ bản
(B) Góc bao phủ điển hình (xuống đến -3dB bên dưới trên trục phản ứng).
(C) Yếu tố khoảng cách trên trục, liên quan đến sự thu nhận đa hướng. Lưu ý ở đây là với thiết kế đơn hướng, chúng ta có thể đạt được một trong hai mục tiêu cơ bản (hay vài loại kết hợp cả hai). (1) Với micro cardioid, supercardioid hay hypercardioid (so với Omni), khoảng cách giữa nguồn âm thanh và microphone có thể được tăng lên đến một yếu tố của cả hai trước khi đạt tới một mức độ tương đương tiếng feedback hay âm thanh thu được chung quanh (như minh họa dưới đây). (2) ở một khoảng cách nguồn-tới-micro nhất định, với một micro thu âm thanh đơn hướng từ môi trường chung quanh có thể giảm một trong hai yếu tố này, làm công cụ quan trọng cho họ cardioid trong việc tránh feedback và việc thu âm thanh không muốn khác, đặc biệt khi sử dụng gần.
Hình 12 Micro Line gradient (shotgun).
Trong loại micro này, được thiết kế để có tính định hướng khoảng cách xa rất xa, lưu ý mô hình ra sao phụ thuộc mạnh vào độ dài của micro. Những micro dài hơn, nhiều kiểu shotgun có khuynh hướng duy trì tần số thấp.
Tại tần số thấp, mỗi micro vẫn là một thành viên của họ cardioid. (A: Sennheiser MKH model M6, supercardioid dưới khoảng 2kHz. B:. Beyer MC 73Z cardioid dưới khoảng 300Hz hay tương đương).
(Frequency Range and Response Curves)
Những giải tần số yêu cầu và đường đáp tuyến của microphone phụ thuộc vào ứng dụng nó đang sử dụng, cũng như theo sở thích cá nhân. Trong nhiều trường hợp, microphone không cần phải bao gồm toàn bộ phổ âm thanh, và cũng không cần điều đó để có đáp tần không đổi trong toàn bộ giải của nó. Trong thực tế, trong nhiều trường hợp, đặc tính này có thể bị phản tác dụng.
Trước hết, trong tất cả trường hợp nhưng cũng rất hiếm, nó không cần nhu cầu bao trùm bát độ thấp nhất của phổ âm thanh (20Hz - 40Hz), vì hỗn hợp âm thanh toàn giải (full-range audio mix) điển hình không liên quan đến năng lượng trong giải này. Hơn nữa, đây là giải tần làm thiết bị loa tần số thấp bị rung động mãnh liệt do giới hạn của thiết kế thực tế. Giảm khả năng của micro có tần số thấp hơn nữa, trong nhiều trường hợp sẽ có lợi thế, đặc biệt đối với vocal và nhạc cụ tần số cao (treble). Thực hiện điều này, thiết kế của nhiều microphone cung cấp khả năng cắt giảm đáp ứng của micro ở tần số thấp chỉ đơn giản bằng cách bật switch sẵn có.
Hỗn hợp âm thanh toàn giải điển hình cũng không liên quan đến bất kỳ năng lượng nào đáng kể trong ½ bát độ cao nhất của âm phổ (khoảng 14k - 20k). Thông thường chỉ có những bội âm rất cao của cymbal mỏng và vài loại chuông (bell) mới có. Dụng cụ điện tử đôi khi có năng lượng đáng kể trong giải này, nhưng nó lại không có nhu cầu bố trí micro (miking), và năng lượng tần số rất cao là hầu như luôn là tác dụng phụ và phương pháp tổng hợp không cần thiết của nó. Cũng đáng chú ý, hầu hết ½ bát độ cao nhất này không nằm trong giải nghe được của phần lớn khán giả trưởng thành.
Giải tần số mở rộng vượt ra ngoài gần hai cực chỉ để mô tả, cho dù có thể là dấu hiệu cho thấy micro shure chính hãng có khả năng tiếp cận nó với hiệu quả hợp lý, khi đường đáp tuyến vuốt ra 1 hai cực. Đáp ứng ở bên ngoài giải tần của micro đôi khi cũng khá thất thường, đây là đặc trưng thường có trong micro moving coil ở tần số cực cao (và không luôn thể hiện trong đường đáp tuyến đã công bố). Do vậy có khuynh hướng không cần quan tâm đến những thông số kỹ thuật của giải tần số do hãng sản xuất đưa ra. Rõ ràng, micro có thể đáp ứng nhiều giải tần số là cần thiết, nhưng những đường đáp tuyến ở giữa những tần số thấp và cao giới hạn, có khuynh hướng thành ra quan trọng nhất.
Còn về những đáp tần giữa hai cực? Điều này phụ thuộc vào cách thức định hình âm thanh, và đánh giá trên cơ sở từng trường hợp cụ thể ra sao. Nếu trình bày nguồn âm thanh chính xác và không có điều chỉnh gì về chất lượng âm, micro có đáp tuyến tương đối phẳng (flat) có thể rất tốt. Rất phổ biến, cho dù sự thay đổi chất lượng âm sắc bằng micro lại được ưa thích hơn những âm thanh có đáp tuyến phẳng. Một lần nữa, đây là một trong rất nhiều vấn đề về sở thích cá nhân. Đồng thời, trong bất kỳ hệ thống đã cho nào, đường đáp tuyến của micro tương đối đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn tới kết hợp tổng thể. Vì lý do này, trong âm nhạc, có khuynh hướng sử dụng nhiều loại micro khác nhau, do đó sẽ đem lại những thay đổi về âm điệu mà chúng ta muốn có trong từng loại nhạc cụ. Chúng ta có thể sử dụng một loại micro chuyên về vocal, một loại trên trống kick, một vào snare, cái khác cho cymbal, v.v.
Nói chung, cho dù cái quan trọng là đường đáp tần có đáp ứng được hiệu ứng chuyển tiếp tương đối tốt dọc theo âm phổ, mà vẫn phù hợp hợp lý với tai trong khi vẫn yêu cầu trục của nó làm việc được nhiều góc độ. Đỉnh cộng hưởng mạnh và đáp ứng cao giảm sắc nét (sharp) đi nhiều, đặc biệt là ở những tần số low và midle, trong vài trường hợp có thể làm trở ngại cho âm thanh chất lượng cao, và khi xảy ra, sẽ rất khó điều chỉnh bằng EQ.
Thí dụ, đáp tuyến tăng và giảm hợp lý, chẳng hạn như từ 125Hz đến 1kHz, sẽ ảnh hưởng đến chất lượng âm của tiếng nói (voice) hay nhạc cụ theo cách nào đó. Nhưng nói chung nó sẽ không có khuynh hướng mô tả sai mức tương đối của những nốt nhạc, nó cũng sẽ không trình bày sai formants (sự cộng hưởng tự nhiên) mang tính sống còn với âm thanh đặc trưng của nhạc cụ. Sự lầm lạc nghiêm trọng về đáp tuyến của micro trong giải này, cho dù có thể gây ra những thay đổi khá dễ đáng chú ý về mức âm lượng rõ ràng và/hay chất lượng âm điệu, như những nền tảng cơ bản và bội âm thấp đi đến trong và ngoài những tần số bị ảnh hưởng, trong khi chơi hay hát những nốt nhạc khác nhau. May thay, điều này chỉ là vấn đề bình thường duy nhất với micro giá rất rẻ. Những loại đáp ứng đỉnh (peak) không cân xứng thường có nhiều vấn đề trong việc đánh giá về loa hơn việc đánh giá micro.
Trong tần số cao, cho dù có liên quan rất nhiều đến những cân nhắc khác nhau. Phổ biến là microphone có sự kết hợp một số đỉnh và dộ dốc (dip) ở đáp tuyến tần số cao để hỗ trợ việc truyền đạt âm suỵt (sibilance) hay cạnh (edge) riêng dặc trưng của nó, đặc biệt là vocal. Trong khi loại hình này có những trở ngại tiềm năng riêng (đỉnh cao mạnh của loại này có thể giảm gain before feedback (ngưỡng hú) và trong vài trường hợp có thể làm việc chỉnh EQ khó hơn), thường được người dùng và người nghe cho rằng sẽ có được hiệu ứng mong muốn. Hơn nữa, đến một mức độ lớn nào đó là đặc tính đáp ứng của loại này - trong khoảng từ khoảng 1kHz trở lên - cho phép micro giữ lại âm thanh đặc trưng của nó mặc dù có sự thay đổi do hiệu ứng gần.
Đối với những ứng dụng cho vocal, hoàn toàn không cần đáp tuyến mạnh dữ dội bên dưới khoảng 150Hz hay gần như vậy, và thật ra có thể vấn đề này là tại: (ở đây chúng ta không nói về giải đáp tuyến tổng thể, dẫn bằng chứng là chúng ta đang nói về đáp ứng quá dữ dội). Thứ nhất, sự thu nhận tiếng vang động do chân micro là khuyết điểm nặng (severly) nhất trong tần số thấp. Thứ hai, tiếng gió ồn, tiếng thở thả hơi bất ngờ hợp sức với những phụ âm P, K, và T cũng là khuyết điểm nặng nhất ở mức thấp. (Đây là loại noise cũng có thể có tác động vào giải quá cao, nhưng lại lan tràn ở mức low). Loại bỏ hoàn toàn khá khó nếu không có mút chắn hơi bên ngoài cồng kềnh, có thể giảm mạnh vấn đề này bằng sự kết hợp giữa cắt tần số thấp và mút chắn hơi bên trong hợp lý, thường gắn vào micro dùng cho ca sĩ. Cuối cùng, khi sử dụng gần, hiệu ứng gần có thể làm tăng đáng kể giải này đến mức nó có thể cản trở âm thanh dự kiến có hiệu quả có thể có dạng thức gây mờ nhạt những nhạc cụ âm trầm hay làm âm thanh bị lộn xộn.
(A) Đây có thể là microphone thông dụng nhất trong ngành, ban đầu tiếp thị với tên thương mại Unisphere. Shure SM-58 được coi là micro vocal cổ điển, và vẫn còn chủ yếu trong ngành cho những ứng dụng chi phí khiêm tốn đến những ứng dụng chất lượng cao. (Cái này chưa có hiệu ứng gần).
(B) Shure SM-57 là một micro đa năng với đáp tần bao quát hơn. (cũng không có hiệu ứng gần).
Lưu ý sự khác biệt tinh tế trong đường đáp tuyến tần số cực thấp và cao. Nếu sử dụng hai micro này trong cùng hệ thống, rất có khả năng sẽ sử dụng kết hợp, 58 cho vocal và 57 cho những nhạc cụ có nhu cầu thu tần số thấp, như trống. 57 là một micro đa năng tốt, vì giải tần số của nó tương đối rộng.
Có lẽ không nên ngạc nhiên, những microphone chất lượng cao nhất thường (mặc dù không nhất thiết) có giải tần số rất rộng hoạt động rất tốt ở giải cuối thấp (low-end). Điều này làm cho micro như vậy không thể chấp nhận cho vocal? Trong thực tế hoàn toàn không phải vậy, nhiều người ủng hộ micro vocal rơi vào nhóm này. Nhưng phải giữ trong tâm trí rằng khi sử dụng gần, có thể cần phải cắt giảm mức thấp, đôi khi hoàn toàn, và trong vài trường hợp có thể có những trả giá bổ sung. Nhiều thiết kế micro có switch cắt giảm mức thấp, chủ yếu cho mục đích này. Nếu cần, cũng có thể cắt giảm đáp ứng này tại mixer hay bởi EQ gắn thêm ngoài. (Nếu loa không đáp ứng mạnh trong giải tần số thép, điều này có thể không cần mặc dù trong vài trường hợp có thể lãng phí công suất hệ thống trong khi micro phân phát tần số thấp không cần thiết).
Nhạc cụ cần micro có nhiều loại khác nhau, sẽ thảo luận thêm tại phần III. Có lẽ đã rõ, micro cho kick drum, toms bass, và dụng cụ âm bass nên có khuynh hướng có đáp tuyến tương đối mạnh ở tần số rất thấp.
Vài hướng dẫn thêm:
Bất cứ khi nào cần mức độ âm thanh rất cao, cũng thường yêu cầu một khoảng cách hoạt động gần rất chặt chẽ. Micro cardioid, supercardioid hay hypercardioid có vị trí gần hay chạm vào môi ca sĩ trên trục có thể hỗ trợ trong việc cho phép loa monitor sân khấu và loa chính có mức độ tín hiệu cao hơn (điều này thường gọi là đang ăn micro - eating the mic). Ngay cả khi micro cầm tay, thực hành này thường có thể cho phép mức độ âm thanh đầy đủ tại màng nhún micro để trung hòa ảnh hưởng của vị trí micro theo nhiều hướng khác nhau, mặc dù vẫn có thể cần phải luyện tập cẩn thận trong phạm vi gần loa monitor sân khấu, hay nếu đi lại ở phía trước loa chính.
Tình huống cần bố trí micro xa (thí dụ như bục giảng- lectern) có thể khuyến khích sử dụng hai micro như trong hình 15-A và B. Phương pháp này có thể làm giảm sự biến động về cường độ khi người nói quay mặt sang trái hay phải, hay thân người quay từ bên này sang bên kia. Đồng thời, nó có thể khuyến khích người nói duy trì phù hợp từ nguồn tới microphone (source-to-mic) hợp lý bằng cách thiết lập một vòng cung tưởng tượng để làm việc trong đó, vạch ra bởi hai vị trí micro. Tuy nhiên, những khuyết điểm khi thực hiện chuyện này đôi khi có thể lớn hơn những ưu điểm, do sẽ xảy ra vấn đề định phase khi dùng hai micro theo cách này. Đánh đổi là đáp ứng tần số sẽ xấu đi khi người nói di chuyển và thay đổi vị trí (xem lại hình 15). Có hay không sự đánh đổi này phụ thuộc phần lớn vào âm thanh trong phòng. Nếu tiếng dội trong phòng tạo ra âm thanh khá rõ và những âm thanh trong khán giả là vấn đề, có lẽ phải có yếu tố này để có lợi cho bạn và chỉ cần sử dụng một micro. Hướng dẫn rõ ràng để diễn giả hiểu về kỹ thuật micro có thể đề cập trong trường hợp như vậy.
hình 14
Hướng dẫn micro tổng quát: Giữ khoảng cách đến nguồn âm thanh ngắn đến mức có thể hợp lý nhất và giữ khoảng cách với những loa lớn có thể hợp lý nhất. Giữ nguồn âm thanh nằm trên trục và loa ngoài trục đến mức có thể tốt nhất. Và/hay giữ micro xa đến mức hợp lý có thể có, đến những góc phát tán hay loa mức độ cao. (Xem thêm hình 20).
Đâu là khoảng di chuyển trung bình, phương pháp duy trì từ nguồn tới micro (source-to-mic) phù hợp với khoảng cách micro là việc dùng microphone đeo dây (lavaliere) hay clip-on (kẹp áo). Đây là loại micro thường là loại đa hướng, và thường được thiết kế để nâng cao đáng kể giải tần số rất cao để bù đắp phần nào sự hạn chế góc phát tán của các tần số từ miệng.
Micro không dây (wireless microphone) có thể, dĩ nhiên, cung cấp cho diễn giả hay ca sĩ nào đó khoảng di chuyển vô hạn, mặc dù nó cũng có khuynh hướng liên quan đến hoạt động thiết lập hơn và có thêm nhiều cơ hội thất bại trong suốt sự kiện hơn so với dùng micro có dây tiêu chuẩn. Trong khi đến nay vẫn còn khá tốn kém, micro không dây được sản xuất với những thiết kế mà khi sử dụng đúng, có khả năng loại bỏ những tín hiệu khác thường và những trở ngại bởi nhiễu tần số vô tuyến phổ biến trong những thiết kế trước. Micro lavaliere thường kết hợp với đai wireless như trong hình 18.
Bất kể sử dụng phương pháp nào, điều quan trọng là hãy nhớ, khi nguồn bắt đầu tiếp cận những góc làm việc hữu ích cực kỳ rộng (mức góc độ bao phủ, như trong hình 11-B) của micro định hướng, những đáp ứng của micro xuống gần 3dB so với đáp ứng trên trục. Điều này có nghĩa không chỉ là việc thu nhận nguồn âm thanh dự định sẽ giảm, nhưng cũng là thu nhận thêm những âm thanh khác từ môi trường, bằng cách so sánh. Khi góc độ đáp ứng đạt -6dB, chúng ta có thể làm tốt hay tốt hơn bằng cách sử dụng micro omni-directional.
Sắc thái ngoài trục-off-axis colorations- (sự khác biệt trong đáp tần) đôi khi cũng có thể đóng vai trò đáng ghi nhận khi bố trí micro. Đáp ứng ngoài trục tiêu biểu có khuynh hướng liên quan đến sự giảm đi một số mức cực cao, nhưng đôi khi có thể kéo theo vùng âm phổ khác tương tự, đặc biệt là khi nguồn di chuyển đến gốc rất xa ngoài trục.
Loại sai lệch này có thể cũng là hậu quả đáng chú ý trong việc sử dụng một microphone cho ba ca sĩ gần nhau trong hệ thống cao cấp tương đối. Khi hai ca sĩ ở hai bên đang tiếp cận từ một gốc (gọi là 90 độ ngoài trục), nơi đáp ứng tần số cao bị giảm xuống, tiếng hát của họ có thể còn thiếu vài âm cao so với ca sĩ ở giữa. (Đồng thời, họ, dĩ nhiên, cần phải di chuyển tới gần micro hơn để có được cường độ thu nhận tương đương). Trong khi không hiệu quả bằng một micro đặt gần cho mỗi ca sĩ, đôi khi chia sẻ micro vì lý do hiệu suất với kết quả tạm chấp nhận được. Sự đánh đổi chính khi thực hiện việc này là sẽ bị giảm ngưỡng hú (gain before feedback), so với mức âm lượng sẵn có từ miệng của ca sĩ gần trên trục.
Các Quý Khách có thể liên hệ trực tiếp tới tổng đài 24/7 0902.188 .722 của chúng tôi để được tư vấn, hỗ trợ thông tin về sản phẩm một cách chi tiết nhất.
Amthanhsankhau.vn xin trân trọng cảm ơn!
Địa Chỉ 1: 488 Trần Khát Chân, phường Phố Huế, Q. Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại: 024 36 286 033 - 0902.188 .722 ( Mr Văn)
Địa Chỉ 2 : 365 Điện Biên Phủ, P4, Q.3, TP.HCM
Điện thoại: 0903.400.600 - 0909.37.34.74 ( Mr Sử)